Tue, 01 / 2013 3:30 pm | helios

Văn hoá Đông Sơn có vị trí và vai trò đặc biệt trong tiến trình lịch sử văn hoá Việt Nam. Qua 80 năm phát hiện và nghiên cứu, Văn hoá Đông Sơn được biết đến như là cơ sở vật chất cho sự ra đời của Nhà nước Văn Lang-Âu Lạc – Nhà nước […]

Văn hoá Đông Sơn có vị trí và vai trò đặc biệt trong tiến trình lịch sử văn hoá Việt Nam. Qua 80 năm phát hiện và nghiên cứu, Văn hoá Đông Sơn được biết đến như là cơ sở vật chất cho sự ra đời của Nhà nước Văn Lang-Âu Lạc – Nhà nước đầu tiên thời đại các Vua Hùng.

Nguồn gốc, khái niệm và đặc trưng văn hoá Đông Sơn Đông Sơn là tên một làng nằm ở bờ sông Mã, cách cầu Hàm Rồng khoảng 1km về phía thượng nguồn (thuộc huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá). Năm 1924, người nông dân tên gọi Nguyễn Văn Lắm ở làng Đông Sơn khi ra bờ sông Mã câu cá đã tìm thấy một số đồ đồng ở nơi bờ sông sạt lở. Viên thuế quan người Pháp tại tỉnh Thanh Hoá tên là Pajot – một người say mê nghiên cứu lịch sử Đông Dương và phong tục tập quán của Việt Nam đã mua những đồ đồng đó và đem đến trường Viễn Đông Bác Cổ (EFEO) để xác định giá trị. Được sự ủy quyền của Giám đốc EFEO thời đó, từ năm 1924 đến 1932, viên quan Pajot tiến hành khai quật ở Đông Sơn và thu được nhiều hiện vật có giá trị. Năm 1929, với những hiện vật thu được ở Đông Sơn kết hợp với những di vật do các nhà nghiên cứu của Pháp tìm thấy ở lưu vực sông Hồng, các học giả về Đông Nam Á ở trên thế giới đã biết về “Thời đại đồng thau ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ” (bài viết của Gloubew). Năm 1934, R.Heine Geldern, một nhà nghiên cứu người Áo lần đầu tiên đề nghị định danh nền văn hoá đó là “Văn hoá Đông Sơn”. Cùng với Gloubew (1929), Geldern coi Văn hoá Đông Sơn có vai trò của “văn hoá mẹ” đối với toàn vùng Đông Nam Á. Những di vật Văn hóa Đông Sơn đã được người dân Việt Nam biết đến từ lâu, nhưng từ năm 1934, thuật ngữ "Văn hóa Đông Sơn" bắt đầu mới có chính thức. Công cuộc tìm hiểu, nghiên cứu Văn hóa Đông Sơn của các nhà nghiên cứu Việt Nam thực sự bắt đầu từ sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng. Năm 1957, học giả Đào Duy Anh coi Văn hoá Đông Sơn là văn hoá đồ đồng và là văn hoá của người Lạc Việt được coi là tổ tiên của người Việt-Mường. Dưới ánh sáng của những phương pháp nghiên cứu mới, thông qua việc phúc tra lại những di tích và thẩm định lại những sưu tập hiện vật, các nhà khảo cổ Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng của Văn hóa Đông Sơn trong tiến trình lịch sử dân tộc. Nhận thức đó càng được củng cố qua các hội nghị nghiên cứu về thời kỳ Hùng Vương trong thập kỷ 60-70 của thế kỷ XX. Dưới góc độ nghiên cứu khảo cổ học và dân tộc học, Văn hoá Đông Sơn là một nền văn hoá thời đại kim khí cách ngày nay khoảng 2000-2500 năm, có nguốn gốc bản địa với địa bàn phân bố rộng (từ biên giới phía Bắc đến tỉnh Quảng Bình ở Bắc Trung Bộ) và bao gồm nhiều nhóm di tích có niên đại sớm, muộn khác nhau. Văn hoá Đông Sơn ra đời và phát triển rực rỡ dựa trên nền tảng của cả một quá trình hội tụ lâu dài từ những nền văn hoá trước đó. Nguồn gốc cơ bản để hình thành nên Văn hóa Đông Sơn đó là các giai đoạn "Tiền Đông Sơn" từ Phùng Nguyên, Đồng Đậu đến Gò Mun. Văn hóa Đông Sơn có mối liên hệ mật thiết với các nền văn hoá phát triển cùng thời trên đất nước như văn hoá Sa Huỳnh (ở Trung Nam Bộ) và văn hoá Đồng Nai (ở lưu vực sông Đồng Nai). Văn hoá Đông Sơn còn được coi là trung tâm phát triển của Đông Nam Á, có mối tương quan với các trung tâm phát triển trong khu vực như trung tâm Đông Bắc (Thái Lan), trung tâm Điền (Vân Nam, Trung Quốc). Chính vì vây, đặc trưng cơ bản của Văn hoá Đông Sơn là tính thống nhất trong đa dạng. Đỉnh cao của Văn hoá Đông Sơn là nghệ thuật đúc đồng Đông Sơn mà ở đó, người Việt đã hoàn toàn làm chủ nguyên liệu và công nghệ chế tạo đồng thau. Đồ đồng đúc có mặt trong toàn bộ đời sống vật chất tinh thần của người Đông Sơn. Kỹ thuật luyện kim và đúc đồng thời này đã đạt đến trình độ hoàn mỹ. Đồ đồng thuộc Văn hóa Đông Sơn không thể lẫn với bất cứ nền văn hóa khảo cổ nào khác trên thế giới. Trống đồng là loại di vật điển hình nhất của Văn hóa Đông Sơn. Trống đồng chính là một linh vật của người Việt cổ được sử dụng trong các lễ hội, nó còn là một bộ sử bằng hình ảnh khi chữ viết chưa phát triển. Trống đồng Đông Sơn có quy mô đồ sộ, hình dáng cân đối, thể hiện trình độ cao về kỹ năng và nghệ thuật. Trống đồng thể hiện tín ngưỡng, cuộc sống sinh hoạt của người Việt cổ. Có hai loại hoa văn không thể thiếu trên mặt tất cả các trống đồng Đông Sơn là hình Mặt Trời với số cánh chẵn 12, 14, 16 hoặc 18 cánh và Chim Lạc (xuất phát từ việc cư dân Việt cổ gắn với văn minh lúa nước do đó thờ thần mặt trời và những loài chim gắn bó với đồng ruộng). Điều đó giúp chúng ta hiểu thêm về đời sống vật chất và tâm linh của dân cư bản địa thời Đông Sơn. Qua quá trình nghiên cứu, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã chia sưu tập hiện vật Văn hóa Đông Sơn làm các loại chính sau: – Vũ khí: Rìu, giáo, lao, dao găm, búa chiến, mũi tên, hộ tâm phiến… – Công cụ sản xuất: Rìu, lưỡi cày, cuốc, lưỡi dao gặt… – Đồ dùng sinh hoạt: Thạp, thố, bình, khay, đĩa, chậu, âu, muôi, thìa… – Nhạc cụ: Chuông, trống, lục lạc… – Đồ trang sức: Vòng, khuyên tai, hạt chuỗi, trâm, khóa thắt lưng… Các trung tâm văn hóa Đông Sơn Phạm vi phân bố của Văn hoá Đông Sơn tập trung đậm đặc ở lưu vực ba con sông lớn: Sông Hồng (các tỉnh châu thổ Bắc Bộ), sông Mã (Thanh Hoá), sông Cả (Nghệ An). Chính từ lưu vực ba con sông này, Văn hoá Đông Sơn bao gồm ba Trung tâm chính: Trung tâm làng Cả (loại hình sông Hồng); Trung tâm Đông Sơn (loại hình sông Mã); Trung tâm Làng Vạc (loại hình sông Cả). Trung tâm Làng Cả (loại hình sông Hồng): Loại hình này được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1945 với di tích Hoàng Ngô (Quốc Oai, Hà Tây) và di tích Làng Cả (Việt Trì, Phú Thọ). Địa bàn chủ yếu của loại hình này là vùng miền núi phía Bắc, vùng Trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Đặc trưng của loại hình là sự phong phú, đa dạng, mang nhiều sắc thái địa phương rõ rệt. Vũ khí có số lượng lớn và gồm nhiều loại: Rìu, giáo, lao, dao găm, búa, mũi tên, hộ tâm, qua, đinh ba. Điểm khác biệt với loại hình khác là các bộ dao găm có tay chắn thẳng; rìu lưỡi lượn gấp khúc và lưỡi xéo gót vuông có hoa văn trang trí. Nông cụ: Rìu, lưỡi cày, cuốc, nhíp… đặc sắc nhất là bộ lưỡi cày đồng (tìm thấy trong trống Mả Tre của Bảo tàng Hà Nội). Đồ dùng sinh hoạt: Thạp, thố, muôi, thìa, đinh hình chữ U. Đặc sắc nhất của loại hình sông Hồng là thạp Đồng Thịnh (Yên Bái) có niên đại 2000-2500 năm. Thạp được đúc với kỹ thuật cao, được trang trí các hình chèo thuyền, chim bay…trên nắp thạp được tạc 4 cặp tượng nhỏ nam nữ trong tư thế giao hoan, thể hiện sinh động tín ngưỡng phồn thực của người Việt cổ. Nhạc cụ: Trống đồng, chuông đồng mà trong đó trống đồng Đông Sơn (trống đồng Ngọc Lũ) là trống loại I cổ nhất, đẹp nhất (theo cách phân loại của Heiger). Đồ gốm: Chủ yếu là đồ đựng. Gốm có màu trắng mốc, trắng hồng, xương gốm mịn màu đen có độ nung cao. Đồ trang sức: Vòng tay bằng đá, đồng, hạt chuỗi Trung tâm Đông Sơn (loại hình sông Mã): Được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1924 ở di tích làng Đông Sơn, Thanh Hoá, bên bờ phải sông Mã. Địa bàn phân bố của loại hình chủ yếu thuộc lưu vực sông Mã, sông Chu, ranh giới phía Bắc của nó tiếp giáp với địa bàn của Văn hoá Đông Sơn loại hình sông Hồng. Đặc trưng của loại hình sông Mã mang đặc trưng của Văn hoá Đông Sơn điển hình. Đặc biệt những đồ đồng thuộc trung tâm Đông Sơn là tiêu chí để nhận biết cho đồ đồng thuộc các loại hình địa phương khác hay để phân biệt giữa Đông Sơn với những nền văn hoá kim khí khác. – Vũ khí: Giáo đồng, mũi tên bằng xương, qua đồng, kiếm, rìu đồng. – Nông cụ: Dụng cụ đan chài bằng đồng, dọi xe chỉ, rìu đồng… – Đồ dùng sinh hoạt, đồ trang sức, tượng nghệ thuật: Thạp đồng Xuân Lập, đèn đồng, trâm cài đầu, khuyên tai đá, gốm, vòng tay trang trí hình cá sấu, khối tượng cóc, tượng người cõng nhau thổi khèn… – Nhạc cụ: Trống đồng Cẩm Giàng, Mã Nguôi, Thành Vinh. – Đồ gốm: Đồ gốm có màu trắng phớt hồng, màu xám đen, màu đỏ thổ hoàng được phủ cả trong lẫn ngoài hiện vật. Trung tâm Làng Vạc (loại hình sông Cả): Được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1972 với di tích làng Vạc (Nghĩa Đàn, Nghệ An) và di tích Đồng Mỏm (Diễn Châu, Nghệ An) vào năm1976. Đặc trưng cơ bản của loại hình này là có sự giao lưu mạnh mẽ với văn hoá Sa Huỳnh ở miền Trung và văn hoá Điền (Vân Nam, Trung Quốc), đồng thời cũng mang những nét đặc trưng riêng biệt, nằm trong tổng thể nhất quán của Văn hoá Đông Sơn: – Vũ khí: Dao găm hình chữ T, dao găm đốc củ hành, dao găm hình búp đa, dao găm có cán tượng người, cán tượng động vật. Đặc biệt nhất là dao găm chuôi hình người phụ nữ (thể hiện vị trí quan trọng của người phụ nữ trong xã hội Việt cổ). – Nông cụ: Rìu với họng tra cán hình đuôi cá (đặc trưng Làng Vạc), lẫy nỏ… – Đồ dùng sinh hoạt: Thạp đồng, muôi đồng. Trong các loại đồ dùng, chiếc muôi đồng có vai trò trong các nghi lễ tôn giáo, có thể dùng để rảy nước nước hoặc các loại rượu cúng thần. Muôi đồng có loại cán là tượng voi; có loại trên cán muôi có trang trí những vòng tròn tiếp tuyến đối đầu và kết thúc bằng một đầu trâu hai sừng dài cong vút, trên mỗi tai có một quả chuông. Hình ảnh con trâu là con vật tiêu biểu không những của văn hoá Đông Sơn (Văn minh lúa nước) mà còn thể hiện đậm nét trong văn hoá Điền (Vân Nam, Trung Quốc). Điều này cho thấy sự giao lưu của văn hoá Đông Sơn. – Đồ trang sức: Phong phú về loại hình, vừa có ý nghĩa trang sức, vừa có ý nghĩa về nghi lễ, gồm: vòng tay, khuyên tai bằng đá, thủy tinh, bao chân, bao tay, vòng tay có gắn lục lạc, khoá thắt lưng hình hộp, thắt lưng hình tượng rùa…Đồ trang sức ở loại hình này mang đậm dấu ấn giao lưu rõ nét với văn hoá Sa Huỳnh. – Đồ gốm: gốm có màu nâu cháy có pha nhiều cát thô, vỏ nhuyễn thể với các loại hình nồi, thạp, chõ. – Tượng nghệ thuật: Tượng voi cõng chim, tượng rùa. Vấn đề bảo tồn văn hóa Đông Sơn Trong 80 năm phát hiện và nghiên cứu Văn hóa Đông Sơn, đã có hơn 200 di tích và hàng vạn di vật thuộc Văn hoá Đông Sơn được phát hiện, nghiên cứu. Tuy nhiên việc bảo tồn gìn giữ các cổ vật Đông Sơn này còn nhiều vấn đề tồn tại. Thứ nhất, đối với công tác bảo tồn trong nước, các cổ vật Đông Sơn chưa quy tụ về một đầu mối quản lý chính thống do mật độ tập trung di tích Đông Sơn ở mỗi địa phương khác nhau. Văn hoá Đông Sơn trải rộng và tập trung trên ba lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Cả, vì vậy các địa phương nằm dọc hai bờ của ba con sông này đều có sưu tập cổ vật Đông Sơn phong phú trong các viện bảo tàng. Ngoài ra các nhà sưu tập tư nhân cũng sở hữu một khối lượng lớn cổ vật Đông Sơn. Theo ông Nguyễn Tuấn Đại – Trưởng phòng Trưng bày, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, thì "khả năng mua lại các hiện vật của bảo tàng và các nhà sưu tập tư nhân là khó có thể, vì nguồn kinh phí của các bảo tàng Trung ương có hạn. Hơn nữa, bên cạnh kinh phí sưu tầm còn cần một nguồn kinh phí lớn khác cho việc bảo quản các hiện vật". Để giải quyết những khó khăn này, Nhà nước cần có chính sách phù hợp để khuyến khích và bảo trợ cho những bộ sưu tập tư nhân giá trị, mở ra một hướng đi mới trong hoạt động bảo tàng. Đó là xã hội hoá kết hợp các lực lượng trong công tác sưu tầm, nghiên cứu đối với các cổ vật nói chung và cổ vật Đông Sơn nói riêng. Thứ hai, đối với công tác sưu tầm khai quật cổ vật, do thiếu nguồn kinh phí nên một bộ phận không nhỏ các hiện vật dù đã phát lộ nhưng vẫn không thể tiến hành khai quật. Thứ ba, cổ vật Đông Sơn là loại hiện vật có tuổi cao, mang dấu ấn văn hoá độc đáo, chế tác tài tình và tinh xảo nên việc phục chế và bảo quản là việc rất khó khăn. Thực tế cho thấy rất nhiều hiện vật Đông Sơn khi tìm thấy thường trong tình trạng bị vỡ, bị hỏng, chất đồng đã bị mủn do nằm dưới lòng đất nhiều thế kỷ và do chủ nhân Văn hoá Đông Sơn có tập tục đập nát, hoặc làm hư hại một phần đồ tuỳ táng trước khi đem chôn theo người chết nhằm cắt lìa với thế giới sự sống. Trong khi đó, ngày nay khi khai quật được các đồ tuỳ táng, người ta thường đem sửa chữa cho nguyên lành, mong sao khôi phục lại hiện vật. Việc làm này nhiều khi làm cho giá trị phi vật thể quan trọng ẩn dấu trong các hiện vật không còn nữa. Thứ tư là vấn đề ngăn chặn nạn chảy máu cổ vật ra nước ngoài. Thế giới biết đến một nền Văn hoá Đông Sơn rực rỡ thông qua một số lượng không nhỏ hiện vật Đông Sơn được trưng bày tại các bảo tàng lớn nổi tiếng trên thế giới như Bảo tàng Cernuschi (Pháp), Bảo tàng Hoàng gia về nghệ thuật và lịch sử (Bỉ), Bảo tàng cổ vật Viễn Đông (Thụy Điển), Bảo tàng Cổ vật Quốc Gia Pháp… và trong các sưu tập tư nhân ở nước ngoài. Tuy nhiên, con đường lưu lạc của những cổ vật Đông Sơn đến các bảo tàng trên là từ những cuộc xâm chiếm thuộc địa trong lịch sử – là lý do bất khả kháng. Còn hiện nay, việc đào bới và buôn bán bất hợp pháp cổ vật ra nước ngoài có xu hướng gia tăng. Cổ vật Đông Sơn được chào bán trên mạng rất đa dạng về chủng loại với giá cao. Cổ vật Đông Sơn cũng như nhiều loại cổ vật khác bằng mọi cách tìm đường đến các thị trường đồ cổ châu Á như Hồng Công, Singapore, Thái Lan để rồi từ đó đến với các bộ sưu tập tư nhân các bảo tàng ở Châu Âu, Châu Mỹ. Thực tế là đỉnh cao của nghệ thuật Đông Sơn hiện nằm ở nước ngoài. Để giải quyết tận gốc vấn đề bảo tồn, phát triển Văn hoá Đông Sơn, các cơ quan quản lý Nhà nước cần ban hành những quy định để gìn giữ bảo tồn hiện vật Đông Sơn – những minh chứng về một nền văn hoá rực rỡ trong lịch sử.

Dịch vụ của chúng tôi :Hut be phot , Áo sơ mi nữ

Xem thêm: máy chiếu sony chính hãng, máy chiếu giá tốt nhất, may chieu panasonic cao cấp bảo hành 3 năm.

Bài viết cùng chuyên mục